Giai thoại về Trạng nguyên khai khoa

15/10/2024 19:29 Số lượt xem: 89
Trạng nguyên Nguyễn Quán Quang là người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, trấn Kinh Bắc, nay là phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn. Ông thi đỗ đầu khoa thi năm Giáp Ngọ 1234, niên hiệu Thiên Ứng Chính Bình thứ 3 đời vua Trần Thái Tông. Ông là vị Trạng nguyên đầu tiên của đất nước.

Các sử gia phong kiến đều gọi ông là Trạng nguyên khai khoa. Bởi trong buổi bình minh của lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam, kể từ khoa thi đầu tiên, gọi là thi nho học tam trường năm 1075 cho tới 200 năm sau năm 1239 trải qua 5 kỳ đại khoa nhưng các triều vua đều chưa lấy Trạng nguyên. Vì vậy, các Thủ khoa như Lê Văn Thịnh, Mạc Hiển Tích, Bùi Quốc Khải, Trương Hanh và Lưu Miễn đều chỉ được lấy đỗ đầu hoặc đỗ đầu nhất giáp. Phải tới khoa thi năm 1246, đời vua Trần Thái Tông mới lấy Nguyễn Quán Quang đậu Trạng nguyên.
Giai thoại truyền rằng, Quán Quang khi nhỏ tên thật là Quan Quang. Ông sinh ra trong một gia đình nghèo, không có tiền gạo theo học, ông thường phải lân la ngấp nghé cửa lớp lúc thầy dạy các học trò trong làng, rồi ông ngồi ngay giữa sân lấy đất viết chữ xuống nền gạch. Một hôm tan học, thầy chợt để ý thấy sân nhà có nhiều chữ, nét viết như phượng múa rồng bay. Thầy kinh ngạc bảo “đây mới chính là trò giỏi” rồi cho gọi Quán Quang đến và cho học.
Quán Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Chẳng bao lâu ông thuộc lầu tứ thư ngũ kinh, ứng khẩu thành thơ, thông thái luận bàn mọi việc đời. Ứng ứng thí kỳ thi hương và đỗ đầu. Đến kỳ thi hội lại đỗ hội nguyên. Khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại tỷ (khi ấy chưa gọi là thi đình), Quán Quang đậu Trạng nguyên.
Sau ngày vinh quy bái tổ, Quán Quang vào chầu vua. Thấy ông cao to, khí phách hơn người, vua tỏ lòng quý mến ban quốc tính. Từ đấy người đương thời gọi ông là Trần Quán Quang.
Lại có giai thoại kể, bấy giờ quân Nguyên Mông tiến tới biên giới đông như kiến cỏ, lăm le đợi ngày xâm chiếm nước ta. Vua ban chiếu cử Quán Quang sang thương nghị với giặc. Tướng giặc nổi tiếng kiêu hùng và thâm thúy cho rằng Quán Quang đến để thuyết khách nên nghĩ kế dùng uy để chế áp. Đi qua ao bèo, hắn vớt một cây bèo lên, cầm gọn trong lòng bàn tay rồi bóp chặt. Lát sau hắn mở ra chìa cho Quán Quang xem, cây bèo đã nát vụn, rồi hắn đắc ý cười nằng nặc. Quán Quang hiểu rằng tướng giặc tỏ ý coi nước Việt như cánh bèo non yếu chỉ cần khẽ đánh là tan. Nghĩ vậy, ông liền nhặt một hòn đá to rồi ném xuống giữa ao. Bèo dạt ra một khoảng trống nhưng chỉ giây lát sau những cánh bèo lại kéo sát vào nhau. Tướng giặc tái mặt hiểu rằng: Người Việt đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn, không một sức mạnh nào có thể khuất phục được. Chính vì thế, hắn phải hoãn binh không dám tiến quân nữa.
Sau một thời gian làm quan, Nguyễn Quán Quang về quê mở lớp dạy học. Ông sống cuộc đời thanh đạm, lấy việc dạy trò làm nguồn vui và vun đắp truyền thống Nho học cho quê hương. Người dân Tam Sơn thường gọi Quán Quang là “ông Tam Nguyên” và ghi nhớ công đức, xem ông như người mở đường cho truyền thống khoa bảng - “Tam Sơn là đất ba gò/Của trời vô tận, một kho nhân tài”.

Thuận Thảo (Theo Văn hiến Kinh Bắc)